Biến chứng lưu kim luồn tĩnh mạch và các yếu tố liên quan ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Tim Hà Nội năm 2025
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả tỷ lệ biến chứng tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại biên và nhận xét một số yếu tố liên quan trên trẻ em điều trị tại Bệnh viện Tim Hà Nội.
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát mô tả ở 147 trẻ em nhập viện với 267 lần lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi từ ngày 01/01/025 đến 02/06/2025 tại khoa Nội nhi – Bệnh viện Tim Hà Nội.
Kết quả: Tỷ lệ trẻ trai là 56,6% và trẻ gái là 43,4%; Trong đó, trẻ dưới 2 tuổi chiếm 44,6%; trẻ từ 2 đến 5 tuổi chiếm 25,8% và trẻ trên 5 tuổi chiếm 29,6%. Bệnh lý chính của đối tượng nghiên cứu là tim bẩm sinh đã điều trị triệt để (chiếm 56,2%); tim bẩm sinh chưa điều trị(chiếm 24%); tim bẩm sinh đã điều trị một phần(chiếm 13,9%) và bệnh lý tim mắc phải(chiếm 6%). Tỷ lệ đường truyền tĩnh mạch ngoại biên có biến chứng chiếm 32,2%, trong đó thấm/ thoát mạch chiếm tỷ lệ cao nhất với 15,7% (chủ yếu mức độ 1 chiếm 32,6%; mức độ 2 chiếm 4,7% và không có mức độ 3-4; tiếp theo là biến chứng viêm tĩnh mạch chiếm 12,4%(chủ yếu VIP 1 chiếm 32,6%, VIP 2 chiếm 4,7% và VIP 3 chiếm 1,2%); biến chứng loét tỳ đè vị trí lưu kim chiếm 2,6% (tất cả là độ 1) và các biến chứng khác chiếm 1,5%.
Kết luận: Một số yếu tố liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ biến chứng lưu kim luồn bao gồm: tình trạng dinh dưỡng, loại thuốc sử dụng, thời gian lưu kim…
Từ khóa
trẻ em, kim luồn, biến chứng, tĩnh mạch, ngoại vi, viêm tĩnh mạch, thấm mạch, thoát mạch, loét tỳ đè
Chi tiết bài viết
Tài liệu tham khảo
2. Sato A., Nakamura I., Fujita H. et al. (2017). Peripheral venous catheter-related bloodstream infection is associated with severe complications and potential death: a retrospective observational
3. “Đánh giá tình trạng lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại biên trên những bệnh nhân nội trú tại khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa huyện Ba Vì năm 2014," 2015.”
4. Nhung, Trung, and Cúc, “Viêm tĩnh mạch tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại biên và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.”
5. Cicolini G., Bonghi A. P., Di Labio L. et al. (2009). Position of peripheral venous cannulae and the incidence of thrombophlebitis: an observational study. J Adv Nurs, 65(6), 1268-73.
6. Quyên et al., “Biến chứng liên quan đến lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh tại khoa sơ sinh bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Times City năm 2022 – 2023.”
7. M. T. Danski, P. Mingorance, D. A. Johann, S. A. Vayego, and J. Lind, "Incidence of local complications and risk factors associated with peripheral intravenous catheter in neonates,
8. M. Legemaat, P. J. Carr, R. M. van Rens, M. van Dijk, I. E. Poslawsky, and A. van den Hoogen, "Peripheral intravenous cannulation: complication rates in the neonatal population: a multicenter observational study," J Vasc Access, vol. 17, pp. 360-5, Jul 12 2016
9. M. C. Wallis, M. McGrail, J. Webster, N. Marsh, J. Gowardman, E. G. Playford, et al., "Risk factors for peripheral intravenous catheter”
10. Nguyễn Ngọc Rạng H. T. M. H., Mai Nhật Quang, Lê Thị Tuyết Nga, Lý Thị Hồng (2013). Có nên thay kim luồn tĩnh mạch thường quy mỗi 72 giờ. Hội nghị khoa học Điều dưỡng bệnh viện An Giang, 6-11
Các bài báo tương tự
- Phan Thị May, Ngô Huy Hoàng, Phạm Như Hùng, Kết quả thẩm định bộ câu hỏi giáo dục bệnh động mạch vành (CADE-Q-SV) ở người bệnh sau can thiệp động mạch vành qua da , Tạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam: Tập 52
Ông/Bà cũng có thể bắt đầu một tìm kiếm tương tự nâng cao cho bài báo này.