Biến chứng thủng thất phải do ống thông tĩnh mạch đùi trong mổ nội soi thay van hai lá: báo cáo ca lâm sàng hiếm gặp
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Biến chứng liên quan đến việc đặt ống thông tĩnh mạch đùi tương đối hiếm gặp, chủ yếu bao gồm các vấn đề tại chỗ như tụ dịch dưới da hoặc nhiễm trùng vết mổ. Tất cả những ca lâm sàng được báo cáo nhỏ lẻ cho thấy biến chứng thủng thất phải rất hiếm và chưa có số liệu thống kê đủ lớn để tính toán tỷ lệ.
Giới thiệu ca bệnh: Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân nữ, 70 tuổi, đã được chẩn đoán hẹp van hai lá khít do thấp và đã được phẫu thuật thay van hai lá sinh học bằng nội soi toàn bộ. Các đường tiếp cận của tuần hoàn ngoài cơ thể thông qua động mạch, tĩnh mạch đùi phải và tĩnh mạch chủ trên trái bằng kỹ thuật Seldinger. Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân đã gặp biến chứng thủng thất phải do ống thông tĩnh mạch. Sửa chữa thương tổn đã được tiến hành qua nội soi để xử trí thương tổn thành công biến chứng này. Sau mổ 6 tháng, tình trạng lâm sàng và kết quả siêu âm tim ổn định.
Bàn luận: Các biến chứng liên quan đến việc đặt ống thông tĩnh mạch đùi tương đối hiếm gặp, đặc biệt là biến chứng thủng thất phải. Một số tác giả khuyến cáo TEE giúp giảm các biến chứng nghiêm trọng như tổn thương tim. Tuy nhiên, ngay cả khi có TEE, tai biến vẫn có thể xảy ra. Có các lưu ý trong kỹ thuật để phẫu thuật viên có thể hạn chế được biến chứng này. Xử trí sửa chữa biến chứng có thể thực hiện qua đường mổ nội soi hoặc mổ mở, phụ thuộc vào mức độ tổn thương, điều kiện thực tế và kinh nghiệm phẫu thuật viên.
Kết luận: Đặt ống thông tĩnh mạch đùi để thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể là một kỹ thuật tương đối an toàn, song vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra biến chứng. Việc nhận diện các điểm yếu trong quy trình kỹ thuật và áp dụng các chiến lược dự phòng hợp lý đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế rủi ro. Trong trường hợp xảy ra thủng thất phải, tổn thương có thể được xử trí hiệu quả qua đường tiếp cận phẫu thuật ít xâm lấn.
Từ khóa
Thủng thất phải, phẫu thuật nội soi tim, tuần hoàn ngoài cơ thể
Chi tiết bài viết
Tài liệu tham khảo
2. Sagbas W, Caynak B, Duran C, Sen O, Kabakci B, Sanisoglu I, et al. Midterm results of peripheric cannulation after port-access surgery. Interact Cardiovasc Thoracic Surg 2007;6:744–7.
3. Franco KL, Vinod HT. Cardiothoracic surgery review. Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins; c2012. p. 1770. p.
4. Gravlee GP, editor. Cardiopulmonary bypass: principles and practice. Philadelphia: Wolters Kluwer Health/Lippincott Williams & Wilkins; c2008. p. 783. p.
5. Mongero LB, Beck JR, editors. On bypass: advanced perfusion techniques. New York: Springer Science & Business Media; c2008. p. 576. p.
6. Passage J, Joshi P. Right ventricular perforation during femoral venous cannulation--lessons learned. Heart Lung Circ. 2013;22:772–774. doi: 10.1016/j.hlc.2012.12.005.
7. Ramchandani M, Al Jabbari O, Abu Saleh WK, Ramlawi B. Cannulation Strategies and Pitfalls in Minimally Invasive Cardiac Surgery. Methodist Debakey Cardiovasc J. 2016 Jan-Mar;12(1):10-3. doi: 10.14797/mdcj-12-1-10. PMID: 27127556; PMCID: PMC4847960.
8. Hemamalini P, Dutta P, Attawar S. Transesophageal echocardiography compared to fluoroscopy for avalon bicaval dual-lumen cannula positioning for venovenous ECMO. Ann Card Anaesth. 2020;23:283–287. doi: 10.4103/aca.ACA_75_19.
Các bài báo tương tự
- Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Sinh Hiền, Nguyễn Thái Minh, Lê Quang Thiện, Ngô Thành Hưng, Phạm Vũ Đăng Minh, Kết quả sớm phẫu thuật thay van động mạch chủ kèm mở rộng gốc động mạch chủ theo phương pháp đường rạch chữ y (kỹ thuật yang) tại Bệnh viện Tim Hà Nội , Tạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam: Tập 52
Ông/Bà cũng có thể bắt đầu một tìm kiếm tương tự nâng cao cho bài báo này.