PHẪU THUẬT THAY VAN HAI LÁ VỚI MỞ XƯƠNG ỨC TOÀN BỘ QUA ĐƯỜNG RẠCH DA TỐI THIỂU
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Phẫu thuật tim ít xâm lấn đang là xu thế chung của thế giới. Sử dụng đường rạch da nhỏ để mở dọc giữa xương ức trong phẫu thuật thay van hai lá chưa được báo cáo tổng kết ở Việt Nam. Nghiên cứu nhằm rút ra những kinh nghiệm bước đầu khi áp dụng kỹ thuật này tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Phương pháp: nghiên cứu mô tả hồi cứu ở 42 bệnh nhân được phẫu thuật thay van hai lá với mở xương ức toàn bộ qua đường rạch da tối thiểu, từ tháng 1/ 2010 đến tháng 8/ 2012. Kết quả: gồm 29 nữ và 13 nam, tuổi trung bình 43,76 ± 10,46 (25 - 63). NYHA trước mổ không quá nặng (18 ca mức I-II, 24 ca mức III, không có mức IV) với phân suất tống máu thất trái 56, 93 ± 7,26% (43 – 74). Thời gian chạy máy 103,93 ± 14,21 phút (79 - 138). Thời gian cặp động mạch chủ 80,36 ±11,15 phút (58 - 110). Thời gian thở máy sau mổ 15,64 ± 11,58 giờ (5 - 48). Thời gian nằm viện 13,67 ± 5,78 ngày (8 – 35). Không có biến chứng viêm xương ức, chảy máu sau mổ. Không có tử vong. Phân suất tống máu thất trái sau mổ: 64,71 ± 6,54% (52 – 75). Mức độ hài lòng của bệnh nhân với đường mổ nhỏ: 60% rất hài lòng, 40% hài lòng. Kết luận: Phẫu thuật thay van hai lá với mở xương ức toàn bộ qua đường rạch da tối thiểu không khó về kỹ thuật, không đòi hỏi trang thiết bị đặc biệt, cho phép thực hiện các thao tác thông thường với độ an toàn cao, có thể thực hiện thường qui trong phẫu thuật tim.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
phẫu thuật van hai lá, đường rạch da tối thiểu, mở xương ức toàn bộ
Tài liệu tham khảo
2. Cary W. Akins (1998), “Full sternotomy t hrough a m inimally i nvasive incision: A cardiac surgeon’s true comfort zone”, Ann Thorac Surg; 66:1429 –30
3. Eugene A. Grossi, Aubrey C. Galloway, Angelo La Pietra, et al. (2002), “Minimally invasive mitral valve surgery: A 6-year experience with 714 patients”, Ann Thorac Surg; 74: 660–4.
4. Grossi EA, Galloway AC, Ribakove GH, et al (2001), “Impact of minimally invasive valvular heart surgery: a case –control study”, Ann Thorac Surg; 71: 807–10.
5. Jan D. Schmitto, Suyog A. Mokashi, and Lawrence H. Cohn (2010), “Minimally-Invasive Valve Surgery”, J. Am. Coll. Cardiol,; 56; 455-462
6. Joerg-Friedrich Onnasch, Felix Schneider, Volkmar Falk, et al. (2001), “Five years of less invasive mitral valve surgery: from experimental to routine approach”, The Heart Surgery Forum 5 (2):132–135.
7. Minoru Tabata, Ramanan Umakanthan, Zain Khalpey, et al. (2007), “Conversion to full sternotomy during minimal-access cardiac surgery: Reasons and results during a 9.5-year experience”, J Thorac Cardiovasc Surg; 134: 165-169.
8. Nguyen Huu Uoc (2009), “Improved combined superior - transseptal approach to the mitral valve”, Asian cardiovascular & thoracic annals, 17(2): 171-174.
9. Tae-Gook Jun, Pyo Won Park, et al. (2002), “Full sternotomy with minimal skin incision for congenital heart surgery”, Cardiovascular Surgery; Volume 10, Issue 6, December 2002, Pages 595–599.
10. Thomas G. Di Salvo, Michael A. Acker, G. William Dec, and John G. Byrne (2010), “ Mitral Valve Surgery in Advanced Heart Failure”, J. Am. Coll. Cardiol; 55; 271-282.
11. Yang, Faisal H. Cheema, Craig R. Smith and Michael Argenziano Alexander Iribarne, et al. (2010), “Minimally invasive versus sternotomy approach for mitral valve surgery: A propensity analysis”, Ann Thorac Surg, 90: 1471-1478.
Các bài báo tương tự
- Phu Bui Duc, Minh Huynh Van, An Tran Hoai, Tan Nguyen Luong, Uyen Dang The, Hoang Doan Duc, ỨNG DỤNG THIẾT BỊ HỖ TRỢ TÂM THẤT HEARTWARE LÀM CẦU NỐI CHỜ GHÉP TIM CHO BỆNH NHÂN SUY TIM GIAI ĐOẠN CUỐI TẠI VIỆT NAM , Tạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam: Tập 11
- Dinh Nguyen Hoang, Nhieu Huynh Bich, Chất lượng cuộc sống người bệnh tăng huyết áp , Tạp chí Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam: Tập 12
Ông/Bà cũng có thể bắt đầu một tìm kiếm tương tự nâng cao cho bài báo này.